Tiêm phòng và đáp ứng miễn dịch của cá vược châu Âu (Dicentrarchus labrax) đối với betanodavirus

( 0 đánh giá )
Miễn phí

Betanodavirus gồm 4 genotype chính: SJNNV, TPNNV, BFNNV, RGNNV; RGNNV phổ biến nhất ở Địa Trung Hải và gây bệnh nặng ở cá vược  

Virus tấn công hệ thần kinh trung ương: não, tủy sống, võng mạc; gây rối loạn vận động, co giật, mất màu, bỏ ăn  

Lây truyền theo cả chiều ngang (nước, cá nhiễm, thức ăn) và chiều dọc (từ cá bố mẹ sang trứng)  

Virus khó bị bất hoạt, tồn tại lâu trong cá nhiễm tiềm ẩn và môi trường  

Chẩn đoán bằng: mô bệnh học, nuôi cấy tế bào, kính hiển vi điện tử, PCR, ELISA, miễn dịch mô hóa học (IHC)  

Kháng thể đơn dòng mAb 4C3 và kháng thể đa dòng đã được dùng để phát hiện virus trong mang cá sau miễn dịch bằng phương pháp ngâm  

Nhiều chiến lược vaccine đã được thử nghiệm:  

– Protein capsid tái tổ hợp: hiệu quả ở turbot, cá vược châu Á, cá mú  

– Vaccine DNA: hiệu quả ngắn hạn, không ổn định  

– Virus bất hoạt bằng formalin hoặc BEI: hiệu quả qua tiêm, ngâm, cho ăn  

– Vaccine dạng hạt giống virus (VLP): hiệu quả phụ thuộc liều lượng  

– Vaccine DNA bọc chitosan cho ăn: không tạo kháng thể nhưng kích hoạt gen miễn dịch tế bào  

– Vaccine bất hoạt kết hợp tá chất (Montanide ISA763A): tăng IgM và gen MxA, ISG12  

– Tiêm nhắc lại giúp tăng đáp ứng miễn dịch tế bào và gen miễn dịch (IFN, COX-2, IL-10, TGF-β…)  

– Nhiễm thực nghiệm cho thấy virus tồn tại lâu trong não và tinh hoàn, gây đáp ứng miễn dịch tại chỗ  

– Gen miễn dịch liên quan gồm: IFN, MxA/B, ISG12, IgM, IgT, IgD, IL-8, TNF-α, IL-1β, CD83, galectin, lectin, histone, NKEF, complement C3…  

Ngâm vaccine không tạo kháng thể huyết thanh nhưng kích hoạt gen miễn dịch ở mang và lách sau 24–72h  

Không có bảo vệ chéo giữa RGNNV và SJNNV → cần vaccine đa giá  

Vaccine autogenous hiện có (Pharmaq 2014) chỉ dùng cho chủng virus tại Tây Ban Nha và Hy Lạp  

Khuyến nghị: chọn lọc cá bố mẹ không nhiễm, xử lý nước và trứng, phát triển vaccine ngâm/cho ăn hiệu quả, kết hợp chọn giống kháng bệnh