Tác động của biến động thập niên về dòng nước ngọt và nhiệt độ lên ấu trùng hai loài cá mồi tại các vùng dưỡng ven biển của cửa sông St. Lawrence

( 0 đánh giá )
Miễn phí

Cá smelt nở sớm hơn (~cuối tháng 4–đầu tháng 5), tập trung ở vùng ít mặn (ASA); cá trích nở muộn hơn (~cuối tháng 5–đầu tháng 6), tập trung ở vùng mặn hơn (BRL).

  • Mật độ ấu trùng cả hai loài tương quan mạnh với dòng nước ngọt từ các phụ lưu vào đầu tháng 5, đặc biệt là RO và RDL; tương quan yếu và âm với nhiệt độ mặt nước biển.
  • - Mô hình lưu thông 3D cho thấy dòng vận chuyển ngược chiều ở tầng đáy giúp đưa ấu trùng cá trích từ điểm sinh sản (Île Verte) đến vùng dưỡng BRL.
  • - Năm 2008 và 2011 có mật độ ấu trùng cao nhất, trùng với dòng nước ngọt mạnh và muộn; năm 2006 và 2012 có mật độ thấp nhất, trùng với dòng yếu và nhiệt độ cao.
  • - PCA cho thấy PC2 (dòng nước ngọt tháng 5) là yếu tố chi phối mật độ ấu trùng mạnh nhất; PC1 phản ánh biến động nhiệt độ và băng.
  • - Chiều dài ấu trùng cá trích tăng tuyến tính theo tổng độ ngày (SDD); cá smelt có quan hệ hình vòm, giảm sinh trưởng ở năm quá nóng (2006, 2012).
  • - Năm 2012, cá trích có chiều dài lớn nhất nhưng điều kiện kém nhất (tỷ lệ mắt/đầu cao), cho thấy stress nhiệt.
  • - Kết luận: dòng nước ngọt đầu mùa xuân là yếu tố quyết định tuyển mộ ấu trùng; ấu trùng cá là chỉ báo nhạy cảm cho biến động môi trường tại cửa sông St. Lawrence.