Sự gia tăng độ cứng thành tế bào trong quá trình làm mềm sinh lý của quả lê

( 0 đánh giá )
Miễn phí

Vật liệu: lê ‘Conference’ và ‘Xenia’ cùng vườn, thu hoạch ở 5–4 thời điểm trước chín thương mại, bảo quản 2 °C, RH 80–90%, không khí thường 120–145 ngày, mỗi giai đoạn theo dõi thêm 3–7 ngày ở 20 °C.  

Đo độ cứng: xuyên thấu 8 mm, đầu dò 11,1 mm, 20 mm/phút.  

Tách CWM: nghiền, loại đường bằng ethanol, acetone.  

Tách pectin: WSP (nước), CSP (0,1 M CDTA, pH 6,5), DASP (0,05 M Na₂CO₃ + NaBH₄), pectin không tan.  

Đo GalA: phương pháp màu Blumenkrantz & Asboe-Hansen, trình phân tích dòng chảy liên tục.  

Hoạt tính enzyme: PG (trên polygalacturonic acid, 37 °C, 2 h, đo GalA giải phóng), PME (chuẩn độ NaOH giữ pH 7,4 trên pectin cam).  

AFM: đầu dò SNL-10, k = 0,28 N/m, góc mở 20,8°, quét 10 µm × 10 µm, 64 điểm/lưới, tốc độ 1 µm/s, phân tích đường cong lực–biến dạng bằng mô hình Hertz-Sneddon (độ sâu 0–100 nm).  

Kết quả: trước thu hoạch, mô đun Young giảm ~30–45 kPa/ngày; thấp nhất ngay sau thu hoạch (1,1 MPa ‘Conference’, 0,2 MPa ‘Xenia’); trong bảo quản tăng lên 2,5–2,8 MPa; shelf life làm tăng (‘Conference’) hoặc giảm (‘Xenia’) độ cứng thành tế bào. Không có tương quan trực tiếp với độ cứng quả sau thu hoạch; sự mềm mô quả sau thu hoạch chủ yếu do suy giảm phiến giữa, trong khi thành sơ cấp cứng hơn. Mô đun Young tương quan âm với GalA ở DASP (‘Conference’) hoặc pectin không tan (‘Xenia’), dương với PG; PME tương quan với mô đun Young ở ‘Xenia’. Đề xuất vai trò của pectin liên kết cộng hóa trị và phân hủy do PG làm tăng độ cứng thành tế bào trong bảo quản, đồng thời làm giảm liên kết giữa tế bào → bở.