Phát triển các ngành công nghiệp sáng tạo ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế

( 0 đánh giá )
Miễn phí

Công nghiệp sáng tạo là trụ cột của kinh tế sáng tạo, bao gồm hàng hóa và dịch vụ có hàm lượng tri thức và giá trị văn hóa cao  

UNCTAD định nghĩa CNST gồm: di sản văn hóa, nghệ thuật thị giác và biểu diễn, nghe nhìn, xuất bản, truyền thông mới, thiết kế, dịch vụ sáng tạo  

Kinh tế sáng tạo đóng góp 3,4% thương mại quốc tế, tăng trưởng 8,7% giai đoạn 2000–2005, giá trị toàn cầu đạt 892 tỷ USD năm 2010  

Mỹ, Thái Lan, Anh, Singapore, Trung Quốc, Ấn Độ đều có chính sách phát triển CNST mạnh mẽ  

Việt Nam có tiềm năng về thiết kế, nghệ thuật, giáo dục, du lịch, biểu diễn, thời trang, thủ công, văn hóa, ẩm thực…  

Thách thức gồm: thiếu chính sách tổng thể, đầu tư R&D thấp, công nghệ lạc hậu, thị trường công nghệ sơ khai, doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm đa số  

Tỷ lệ đầu tư đổi mới công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam chỉ 0,2–0,3% doanh thu, thấp hơn nhiều so với Ấn Độ (5%) và Hàn Quốc (10%)  

Chính phủ cần hỗ trợ CNST thông qua bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, xây dựng cơ sở dữ liệu ngành, tăng cường liên kết và chính sách phát triển  

Bảng phân loại CNST theo HS-1996 gồm: thiết kế (thời trang, nội thất, đồ chơi, kim cương), thủ công mỹ nghệ, nghệ thuật thị giác, xuất bản, âm nhạc, truyền thông mới, nghe nhìn, dịch vụ sáng tạo, quảng cáo, kiến trúc, R&D, bảo tàng, nhượng quyền, sáng chế…