Mức độ nhiễm của một số giống hạt ngô đối với mọt ngô Sitophilus zeamais (Coleoptera: Curculionidae)

( 0 đánh giá )
Miễn phí

Thí nghiệm CRD 3 lặp, 150 g hạt/giống, cho 30 mọt trưởng thành (1–2 tuần tuổi) vào lọ 250 ml, để đẻ 10 ngày, sau đó loại bỏ. Theo dõi F₁ 36 ngày kể từ 30 ngày sau thí nghiệm.  

Độ ẩm hạt ban đầu 11,4–13,8%; Aseda, TZE‑Y POP STR thấp nhất (~11,4–11,9%), Abontem cao nhất (13,8%). Tỷ lệ chết mọt 1,1% (Aburohemaa) tới 60% (Abontem, Aseda). Thời gian xuất hiện F₁ đầu tiên sớm nhất 27 ngày (Obaatanpa, Omankwa), muộn nhất 41 ngày (Aseda). Số F₁ cao nhất 128 (Aburohemaa), thấp nhất 5,3 (Aseda). MDP 37,7–47,3 ngày; IS: <4 (Aseda, kháng), 4,1–6,0 (TZE‑Y POP STR), 6,1–8,0 (5 giống trung nhiễm), 8,1–10 (8 giống nhiễm), ≥10 (3 giống rất nhiễm).  

Tỷ lệ hạt hư hại 1,5% (Aseda) tới 30,5% (Aburohemaa); hao hụt khối lượng 0,1–2,4%, bột 4,9–138,5 mg. Nảy mầm trước nhiễm 72,4–85,9%, sau nhiễm giảm, thấp nhất 52% (Omankwa), cao nhất 98% (Aseda).  

Phân tích tương quan: IS liên hệ thuận mạnh với hư hại (r=0,9), hao hụt (0,6), bột (0,9), số F₁ (0,9); nghịch với chết trưởng thành (‑0,4), MDP (‑0,5), nảy mầm (‑0,7). Hư hại và số F₁ tương quan nghịch nảy mầm (‑0,8; ‑0,7).  

Kết luận: Giống kháng/trung kháng có độ ẩm thấp, MDP dài, số F₁ ít, giảm hư hại và hao hụt; giống rất nhiễm có F₁ nhiều, IS cao, hư hại lớn, nảy mầm giảm mạnh. Khuyến nghị chọn/bảo quản giống kháng để giảm tổn thất sau thu hoạch.