Đáp ứng cytokine và mối liên hệ với đặc điểm lâm sàng ở trẻ nhiễm Enterovirus 71

( 0 đánh giá )
Miễn phí

Đối tượng: 93 trẻ EV71 xác định bằng RT-PCR/IgM; chia nhóm nhẹ, nặng, nguy kịch theo hướng dẫn Bộ Y tế TQ (2010). Nhóm chứng: 15 trẻ khỏe.

  • Thu thập: huyết tương (nhẹ, nặng, nguy kịch, chứng) và DNT (nặng, nguy kịch) ở giai đoạn cấp (≤3 ngày khởi bệnh) và hồi phục (7–14 ngày sau điều trị).
  • - Kết quả huyết tương:
  •     + IL-1β, IL-6 tăng ở nhóm nặng/nguy kịch so với nhẹ/chứng; IL-6, IL-10, IL-8 cao hơn ở nguy kịch so với nặng.
  •     + TNF-α không khác biệt; RANTES đa số không khác, nhưng 2 ca nguy kịch rất thấp.
  • - Kết quả DNT:
  •     + IL-6, IL-8, IP-10, MIG cao hơn rõ ở giai đoạn cấp so với hồi phục; IL-1β tăng ở nguy kịch; RANTES thấp hơn huyết tương.
  •     + So với huyết tương, DNT có IL-6, IL-8, IP-10 cao hơn, RANTES thấp hơn (P<0,001).
  • - Tương quan (nhóm nặng):
  •     + IL-6, IL-8, IP-10 trong DNT tương quan thuận với bạch cầu DNT, số lượng tuyệt đối bạch cầu đa nhân và mono; IL-6 tương quan với nhiệt độ.
  •     + Không thấy tương quan ở nhóm nguy kịch.
  • - Diễn giải:
  •     + Viêm hệ thống (IL-6, IL-8 huyết tương cao, BC máu cao) có thể dự báo nguy kịch.
  •     + Viêm CNS (IL-6, IL-8, IP-10 DNT cao) hiện diện ở tất cả ca có biến chứng thần kinh; giảm rõ sau điều trị IVIG + glucocorticoid.
  •     + Cytokine tiền viêm vừa có vai trò bảo vệ vừa có thể gây hại (tổn thương CNS, phù phổi do thần kinh).
  • - Khuyến nghị: cần thêm bằng chứng từ nghiên cứu đối chứng và mô hình động vật để đánh giá hiệu quả IVIG/glucocorticoid; IL-6 huyết tương có thể là chỉ dấu tiên lượng.