Đánh giá hoạt động thương mại hóa quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế ở Việt Nam

( 0 đánh giá )
Miễn phí

Sáng chế là hàng hóa vô hình, có giá trị thương mại cao nhưng khó định giá và triển khai nếu thiếu sự phối hợp  

Phương thức thương mại hóa gồm: nghiên cứu xuôi, công nghệ ngược, sàn giao dịch công nghệ, chuyển giao trực tiếp  

Thương mại hóa sáng chế khác biệt với hàng hóa hữu hình: không thể tự đưa ra thị trường, cần doanh nghiệp hỗ trợ  

Thực trạng pháp lý: chưa có cơ chế định giá tài sản trí tuệ, chưa có quy định rõ về góp vốn bằng sáng chế  

Số lượng hợp đồng chuyển giao sáng chế còn thấp, chủ yếu là nhãn hiệu; trung bình chỉ 20–30 hợp đồng/năm  

Doanh nghiệp Việt Nam chưa đầu tư mạnh vào R&D, tỷ lệ đầu tư chỉ 0,1–0,3% doanh thu  

Tổ chức trung gian như sàn giao dịch công nghệ còn thiếu và yếu, cán bộ chưa có chuyên môn sâu  

Tổ chức tư vấn luật chưa có kinh nghiệm thực tế về chuyển giao sáng chế, nhiều đơn vị chưa từng thực hiện hợp đồng  

Nhà sáng chế cá nhân e ngại hợp tác, không muốn chia sẻ công nghệ, thiếu hiểu biết về thị trường và đầu tư  

Sáng chế thuộc sở hữu nhà nước khó thương mại hóa do thiếu cơ chế ủy quyền và hỗ trợ  

Đề xuất mô hình liên kết bốn chiều: nhà sáng chế – nhà nước – doanh nghiệp – địa phương, cùng đầu tư từ giai đoạn tiền công bố  

Vai trò của nhà nước: hỗ trợ cơ sở vật chất, pháp lý, quỹ đầu tư mạo hiểm, chính sách đấu thầu mở cho nhà khoa học độc lập  

Doanh nghiệp là chủ thể trung tâm, tham gia cả giai đoạn nghiên cứu và triển khai, nắm bắt nhu cầu thị trường  

Thống kê quốc tế cho thấy tỷ lệ đóng góp của doanh nghiệp vào R&D càng cao thì tỷ lệ thương mại hóa càng lớn