Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản trí tuệ theo pháp luật Việt Nam

( 0 đánh giá )
Miễn phí

Quyền SHTT là quyền tài sản theo Điều 105 và 115 BLDS 2015, có thể dùng làm tài sản bảo đảm  

Chủ sở hữu có thể khai thác quyền SHTT qua chuyển nhượng, cấp phép, sản xuất, thu hút vốn  

Tuy nhiên, chưa có trường hợp nào quyền SHTT được dùng làm tài sản bảo đảm tại Việt Nam  

Nguyên nhân chủ quan: năng lực sáng tạo thấp, số lượng sáng chế ít, doanh nghiệp chưa nhận thức đúng giá trị SHTT  

Nguyên nhân khách quan:  

– Tính vô hình của tài sản trí tuệ gây khó khăn trong chiếm hữu và xử lý  

– Thời hạn bảo hộ giới hạn, giá trị tài sản giảm theo thời gian hoặc công nghệ lỗi thời  

– Quyền SHTT bị giới hạn bởi quyền sử dụng trước, sử dụng hợp lý, lợi ích cộng đồng  

– Cơ chế định giá chưa rõ ràng, thiếu công cụ và tiêu chí cụ thể  

– Cơ chế xử lý tài sản bảo đảm chưa hoàn thiện, thiếu quy định về thứ tự ưu tiên  

– Thực thi quyền SHTT còn yếu, vi phạm phổ biến, chưa tạo niềm tin cho tổ chức tín dụng  

Kiến nghị:  

– Thành lập trung tâm định giá tài sản trí tuệ để phục vụ định giá trong các giao dịch dân sự  

– Thành lập trung tâm đăng ký giao dịch bảo đảm đối với tài sản trí tuệ, kết nối với các cơ quan chuyên môn  

– Tăng cường thực thi quyền SHTT qua tuyên truyền, hỗ trợ đăng ký, chế tài nghiêm khắc  

– Hoàn thiện pháp luật để thúc đẩy sử dụng quyền SHTT như tài sản bảo đảm, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ