Ảnh hưởng của nấm men đối kháng Pichia membranaefaciens đến bệnh đốm đen trên bông súp lơ xanh sau thu hoạch

( 0 đánh giá )
Miễn phí

P. membranaefaciens được nuôi trên môi trường NYDA/NB, chuẩn hóa mật độ tế bào (10^4–10^10 cells/mL), xử lý đồng nuôi với A. alternata trong thí nghiệm in vitro và in vivo trên bông súp lơ xanh (Brassica oleracea L. var. italica). Thử nghiệm in vitro cho thấy nồng độ ≥10^8 cells/mL ức chế ~89% sinh trưởng khuẩn lạc và hoàn toàn ngăn nảy mầm bào tử; dịch nuôi cấy lọc không rửa ít hiệu quả hơn. Quan sát dưới kính hiển vi cho thấy sợi nấm phồng, rò rỉ chất bên trong, ống mầm cong hoặc đứt đoạn. Trong điều kiện bảo quản 10 °C, xử lý rửa sạch tế bào men (10^8 cells/mL) giảm tỷ lệ bệnh từ 100% xuống 25,5%, giảm đường kính vết bệnh ~48% so với đối chứng; dịch nuôi không tế bào giảm nhẹ mức độ bệnh nhưng không ảnh hưởng tỷ lệ nhiễm. Phân tích enzyme cho thấy xử lý men đối kháng làm giảm mạnh hoạt tính cellulase (từ 302 xuống ~200 mg glucose/g FW/h) và pectinase (từ 44,7 xuống <30 mg/g FW/h) so với lô chỉ nhiễm nấm; đồng thời hoạt tính chitinase tăng lên mức 35–36 U/g FW trong 1–2 ngày đầu, cao hơn đối chứng, sau đó giảm dần. Cơ chế đề xuất: cạnh tranh dinh dưỡng và vị trí, tiết enzyme thủy phân thành tế bào nấm (chitinase), cùng khả năng ức chế trực tiếp sự phát triển của mầm bệnh.